Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân Vũ Nhân Chiêu, sau đổi thành Vũ Nhân Trứ sinh năm 1688, mất ngày 10 tháng 3 âm lịch, quê xã Minh Lễ, nay là thôn Tri Lễ, xã Hà Thanh, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Thừa hưởng truyền thống “Nhân trí truyền gia” của dòng họ và sự khích lệ của gia đình, Vũ Nhân Chiêu sớm coi trọng đạo học. Tinh thần trọng đạo học ấy đã giúp Vũ Nhân Chiêu từng bước trưởng thành, có địa vị cao trong xã hội; làm nhiều việc mang lại lợi ích thiết thực cho dòng họ, quê hương.

Tượng Tiến sĩ Vũ Nhân Chiêu ở Nhà thờ Tổ họ Vũ thôn Tri Lễ.
Ngay từ khi còn nhỏ, cậu bé Vũ Nhân Chiêu đã biết vượt lên hoàn cảnh khó khăn của bản thân và gia đình; chăm lo việc bồi bổ kiến thức, rèn luyện nhân cách. Từ một cậu học sinh quê lúa, trải qua nhiều cấp học, nhiều lần thi tuyển, cuối cùng Vũ Nhân Chiêu được vào học ở Quốc Tử Giám – Hà Nội. Năm 1721 cụ dự thi Hội, thi Đình và đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Sau khi thi đỗ Tiến sĩ, cụ được triều đình vua Lê – chúa Trịnh trọng dụng và giao cho nhiều chức vụ quan trọng như: Giám sát ngự sử đạo Kinh Bắc, Hàn lâm viện Thừa chỉ. Khi mất cụ được truy tặng chức Hữu thị lang Bộ Công, tước Bá.
Trong thời gian làm việc ở chốn quan trường, mặc dù bận trăm công, nghìn việc nhưng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân Vũ Nhân Chiêu vẫn quan tâm chăm lo việc chấn hưng đạo học nơi quê nhà.
Những năm đầu thế kỷ XVIII, cụ tham gia thành lập và sinh hoạt trong hội Tư văn ở tổng Hà Lộ. Hội viên hội Tư văn lúc ấy gồm những người đã đỗ đạt khoa trường, làm quan hoặc không ra làm quan; quê ở các xã Minh Lễ, Hàm Cách, Bình Cách, Trạch Lộ, Hà Hải thuộc địa bàn tổng Hà Lộ. Hội Tư văn ở đây không chỉ là nơi đàm đạo của giới trí thức mà còn là nơi phát hiện, giáo dưỡng, cổ suý lớp trẻ và các tầng lớp dân cư trong vùng chung tay, góp sức giữ gìn, phát triển đạo học.
Năm Nhâm Dần (1722) cụ cùng hội Tư văn luận bàn, thống nhất xây dựng Từ vũ, gồm 1 toà, 2 chái tại khu đất tốt ở xã Hàm Cách. Thông thường Từ vũ, hay còn gọi là Từ chỉ là nơi phụng thờ Khổng Tử và các bậc tiên hiền. Nhưng Từ vũ dựng ở tổng Hà Lộ theo quan điểm của Tiến sĩ Vũ Nhân Chiêu: trước là để “phụng thờ bậc tiên hiền”, sau là để “mọi người biết coi trọng cái đạo học” và “làm rạng rỡ thêm cái đạo học ấy”(*). Việc chọn đất và chỉnh đốn các sự việc xây dựng Từ vũ được hội Tư văn giao cho Tướng địa viên giữ chức Huyện thừa là Tiến công thứ lang Vũ Nhân Nghị, người xã Minh Lễ đảm nhiệm. Ngày 12 tháng 2 năm Quý Mão (1723) tiến hành khởi công xây dựng ngôi Từ vũ, việc làm này kéo sang đến tháng 3 năm 1723 thì hoàn thành. Trải qua thời gian, đến ngày lành tháng 3 năm Giáp Thìn (1724) hội Tư văn quyết định tái tạo lại ngôi Từ vũ cho rộng thêm thành 1 toà, 3 gian; xung quanh trồng cây che mát, tạo cảnh để nơi hành lễ vừa kín đáo lại vừa trang nghiêm. Kể từ đây “ngôi Từ vũ này sừng sững uy nghiêm, cung tàng tuấn lịch, óng ánh tựa ngọc bích chốn Dao Trì, đường thi thư thơm lừng một dải, làm hưng thịnh sự nghiệp bút nghiên”. (*)
Cũng từ đây “ngôi Từ vũ trở thành nơi quanh năm tế tự, hương khói nghi nghiêm, và cũng vì thế mà nhiều người đã xuất tiền, gạo nếp xin cung tiến để mong giữ mãi dài lâu được cái đạo học này”(*). Những người đóng góp công sức, gạo, tiền, ruộng đất để xây dựng, tái tạo Từ vũ phần đông là hội viên hội Tư văn, trong đó có Vũ Nhân Chiêu; số ít còn lại là chức sắc địa phương thuộc các dòng họ khác trong vùng.
Tháng Giêng năm Đinh Mùi (1727) Tiến sĩ Vũ Nhân Chiêu lại cùng hội Tư văn quyết định dựng bia đá ở Từ vũ, ghi tên khắc chữ vào bia lưu danh những người đã đóng góp công sức mở ra nền móng, giữ vững đạo mạch của Tư văn để các thế hệ sau biết kính trọng, lưu truyền mãi mãi. Tiến sĩ Vũ Nhân Chiêu được hội Tư văn tin tưởng, trao việc soạn văn bia. Văn bia do Tiến sĩ Vũ Nhân Chiêu soạn vừa đáp ứng yêu cầu của hội Tư văn, vừa nêu rõ những chính kiến có tầm nhìn xa, trông rộng và hết sức sâu sắc của cụ về những công việc đã làm như: Lập hội Tư văn, xây Từ vũ không chỉ để mọi người biết “coi trọng cái đạo học” mà còn biết “quan tâm làm rạng rỡ cái đạo học ấy”(*). Việc cung tiến tiền bạc, ruộng đất của một số người vào Từ vũ để “lưu làm chi phí đèn hương tế tự mãi mãi”(*), đồng thời cũng là để “giữ vững đạo mạch của Tư văn kéo mãi trường tồn, tạo cho thế hệ sau biết kính trọng những người đã có công mở ra nền móng này.”(*)
Hoạt động của Tiến sĩ Vũ Nhân Chiêu và hội Tư văn từng bước phát huy tác dụng tích cực, trên cả sự mong đợi. Kết quả là ở tổng Hà Lộ thời ấy “anh tài phát lên lớp lớp, khoa trường nối tiếp đăng khoa để lại nhiều công danh rờ rỡ”(*). Riêng dòng họ Vũ ở Minh Lễ có đến 5 người đăng khoa, thành đạt và được lưu danh trong văn bia Từ vũ. Xếp đầu là Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, Giám sát ngự sử đạo Kinh Bắc, Cẩn sự lang Vũ Nhân Chiêu. Tiếp đến là Huyện thừa, Tiến công thứ lang Vũ Nhân Nghị và các sinh đồ Vũ Nhân Bồi, Vũ Nhân Phương, Vũ Nhân Cung. Không dừng lại ở đó, hoạt động của Tiến sĩ Vũ Nhân Chiêu và hội Tư văn ở tổng Hà Lộ còn để lại cho hậu thế những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu về việc khuyến học, khuyến tài đến nay vẫn còn vẹn nguyên giá trị.
Với tầm nhìn xa, trông rộng và những việc làm hữu ích nêu trên, có thể khẳng định: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân Vũ Nhân Chiêu là người có công rất lớn trong việc đề cao đạo học và làm cho đạo học ấy ngày càng phát triển rực rỡ; góp phần phát huy truyền thống “Nhân trí truyền gia” của dòng họ Vũ – Võ Việt Nam nơi quê nhà. Công lao của cụ đã được dòng họ và quê hương ghi nhận; tên tuổi của cụ đã được lưu danh bảng vàng, bia đá ở quê nhà và ở Văn Miếu Quốc Tử Giám – Hà Nội. Cụ xứng đáng là bậc tiên hiền tài cao, đức trọng; con cháu muôn đời tôn kính, noi theo.
VŨ ĐĂNG DOANH
Trích từ: Thông tin dòng họ Vũ – Võ Việt Nam 2021
—–
(*) Trích “Từ Vũ bi ký” của TS. Vũ Nhân Chiêu ở Từ chỉ Hàm Cách.















