Trường Giang – con sông dài nhất châu Á (hơn 6000km) chạy từ Tây sang Đông là phân giới tự nhiên giữa hai không gian văn hóa lịch sử mà người Trung Quốc thường gọi là Hoa Bắc và Hoa Nam. Thực chất đây là ranh giới phân biệt vùng người Hán giữ vai trò chủ đạo ở phía Bắc với vùng tụ cư của các cư dân phi Hán tộc ở phía Nam mà sử sách quen gọi là Bách Việt. Trong các tộc Việt nổi lên các nhóm có trình độ văn minh đã phát triển cao tới mức hình thành nên quốc gia như Ngô Việt (Câu Ngô), Dương Việt, Sơn Việt, Điền Việt, Ư Việt, Mân Việt, Âu Việt, Lạc Việt… Quê gốc của Thần Tổ Vũ Hồn là đất của người Mân Việt (tương đương với vùng Phúc Kiến ngày nay). Từ đất Mân Việt đến Đại Việt vào thế kỷ XI, dưới thời vua Lý Nhân Tông còn có một nhân vật đã góp phần làm rạng danh Đại Việt sau này. Đó là Trần Kinh, vị Tổ đã sinh ra những hậu duệ tạo dựng nên nhà Trần, một triều đại vũ công, văn trị, lập nên chiến công ba lần đại thắng quân xâm lược Mông – Nguyên.
Vị trí phân bổ (tương đối) của một số nhóm trong cộng đồng Bách Việt.
Dân Mân Việt là những người có óc sáng tạo và ý chí đấu tranh kiên cường. Năm 334 TCN Mân Việt bước vào thời kỳ lập quốc. Cũng giống như các tộc Việt khác, người Mân Việt cũng bị thôn tính vào năm 110 TCN. Người Mân cũng liên tục nổi dậy đấu tranh chống ách cai trị của nhà Hán và các chính quyền đô hộ phương Bắc, nhưng do vị trí địa chính gần với Trung Nguyên nên họ đã không giành lại được độc lập. Cũng do có vị trí ven biển và thạo đi biển nên trong một thời kỳ lịch sử lâu dài, rất đông người Mân Việt đã đi tìm tự do ở những vùng đất mới. Không phải ngẫu nhiên mà phần lớn số người được coi là Hoa kiều trên khắp thế giới hiện nay lại có quê hương gốc là đất Mân Việt (Phúc Kiến), trong số đó nhiều nhân vật lỗi lạc đã trở thành nguyên thủ quốc gia và vùng lãnh thổ như Tổng thống Thái Anh Văn và các cựu Tổng thống Lý Đăng Huy, Trần Thủy Biên (Đài Loan), Thủ tướng Lý Quang Diệu, Lý Hiển Long (Singapore), Thủ tướng Thaksin (Thái Lan)…
Trở lại lịch sử, trong thời kỳ Bắc thuộc giai đoạn thế kỷ VIII – X, nhà Đường có chính sách sử dụng người tại chỗ làm quan cai trị. Thần Tổ Vũ Hồn, khi ấy được coi là người bản xứ thuộc An Nam Đô hộ phủ, được bổ làm Thứ sử, sau thăng làm Kinh Lược sứ. Phụ thân của Thần Tổ, cụ Vũ Công Huy là người Mân Việt, từng đỗ đạt làm quan nhưng sau khi rời bỏ quan trường đã đi chu du và sớm gắn bó với vùng đất Hồng Châu (vùng Hải Dương nay). Tìm thấy tại đây một gò đất có thế phong thủy phát về đường học hành và phúc đức con cháu, cụ đã quyết định đưa hài cốt thân sinh là cụ Vũ Tiên Oanh về táng ở Đống Dờm với một tâm niệm “Vàng núi thóc biển coi như cỏ rác, con hiếu cháu hiền quý hơn châu ngọc”. Cũng tại đây cụ đã nên duyên vợ chồng với một phụ nữ đất Hồng Châu tên Nguyễn Thị Đức. Kết quả của cuộc hôn nhân giữa chàng trai Mân Việt tài hoa với người con gái hiền thục làng Mạn Nhuế, đất Hồng Châu là vào ngày 8 tháng Giêng năm Giáp Thân (804) bà đã sinh hạ được một người con trai khôi ngô có khuôn mặt toát lên vẻ thông minh khác thường được đặt tên là Vũ Hồn.
Thần Tổ Vũ Hồn ở làng Mộ Trạch. (Ảnh baophapluat.vn)
Đúng như ước nguyện của đấng sinh thành, năm 16 tuổi Vũ Hồn đã đỗ Tiến sĩ và 5 năm sau được bổ làm Thứ sử Giao châu, đứng đầu một đơn vị hành chính bao gồm 8 huyện(1). Đến năm 841 khi Vũ Hồn mới 37 tuổi đã được thăng làm An Nam Kinh Lược sứ, cai quản 13 châu với 59 huyện(2), tương ứng với phần phía tây nam tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), toàn bộ miền Bắc và miền Trung Việt Nam từ Hà Tĩnh trở ra.
Là người tài giỏi, học hành đỗ đạt, quan lộ hanh thông nhưng phẩm chất được người đời nhắc đến nhiều ở Thần Tổ Vũ Hồn lại là đức hiếu hạnh, lòng vị tha, dạy người không biết mệt. Ngài luôn tâm niệm: “Được một ngày nuôi cha mẹ, dẫu làm đến Tam công cũng không sướng bằng. Ta nay còn có mẹ già, há nên tham giàu sang mà không nghĩ đến hiếu dưỡng hay sao”(3). Với tâm nguyện đó, khi mới 39 tuổi Vũ Hồn đã cáo quan về dạy học mà thực ra là để phụng dưỡng mẹ già. Ngài chọn đất làng Chằm Thượng, chiêu dân lập ra trang Khả Mộ, mở trường dạy học và sớm tối chăm sóc mẫu thân. Khi bà quy tiên, ngài đã đưa thi hài về quê ngoại an táng và lưu lại bên phần mộ ngày ngày dâng lễ, cúng tế suốt ba năm.
Sau khi qua đời, Vũ Hồn được dân trang Khả Mộ vì cảm kích công đức đã suy tôn làm Thành hoàng và được triều đình phong làm Thượng đẳng Phúc thần. Từ nền móng ban đầu do Thần Tổ dựng đặt, truyền thống hiếu học, trọng học và đỗ đạt của làng Mộ Trạch ngày càng phát triển, mở rộng ra thành truyền thống của cả dòng họ Vũ – Võ Việt Nam.
Trải hơn nghìn năm với những đóng góp xứng đáng cho lịch sử và văn hóa dân tộc, dòng họ Vũ – Võ đã đúc kết nên giá trị cốt lõi là NHÂN HẬU và TRÍ TUỆ. Đây là nền tảng tinh thần để dẫn dắt con em dòng họ đi lên và là cội nguồn sức mạnh của các lớp cháu con trên bước đường đi tới. Cùng với những truyền thống quý báu, họ Vũ – Võ chúng ta còn được thừa hưởng những di sản văn hóa vật thể vô giá là Mộ Cao Tổ ở Đống Dờm, mộ Tổ Mẫu ở Kiệt Đặc, Lăng Thần Tổ và Phu nhân cùng hệ thống đền miếu ở Mộ Trạch. Đây là những linh tích không chỉ được con cháu họ Vũ – Võ thường xuyên về chiêm bái mà còn được những dòng họ khác ngưỡng mộ.
HĐDH Vũ – Võ Việt Nam và các tỉnh, thành dâng hương tại Miếu đức Thần Tổ Vũ Hồn.
HĐDH Vũ – Võ Việt Nam dâng hương Đức Thần tổ Vũ Hồn tại Mộ Trạch – Hải Dương.
Lãnh đạo HĐDH Vũ – Võ Việt Nam dâng hương tại Lăng mộ đức Thần Tổ Vũ Hồn – Mộ Trạch, Hải Dương.
Thần Tổ Vũ Hồn thực sự là niềm tự hào của dòng họ Vũ – Võ Việt Nam. Trách nhiệm của chúng ta, các thế hệ con cháu của Ngài phải làm sao củng cố vững mạnh khối đoàn kết để giữ gìn và phát huy ngày càng mạnh mẽ những di sản vô cùng quý báu đó.
GS.TSKH.NGND VŨ MINH GIANG
Chủ tịch HĐDH Vũ – Võ Việt Nam
Xem thêm tại “bản tin dòng họ Vũ Võ Việt Nam năm 2021”
—————————–
(1) 8 huyện đó là: Tống Bình, Long Biên, Chu Diên, Giao Chỉ, Bình Đạo, Vũ Bình, Nam Định, Thái Bình, tương đương với vùng đồng bằng Bắc Bộ.
(2) 13 châu đó là: Giao Châu, Lục Châu, Phong Châu, Ái Châu, Hoan Châu, Trường Châu, Phúc Lộc Châu, Thang Châu, Chi Châu, Vũ Nga Châu, Diễn Châu, Vũ An Châu, Châu một số huyện miền núi.
(3) Theo Ngọc phả hiện lưu giữ tại đình làng Mộ Trạch.