Bà Thái – Phi Vũ Thị Ngọc Quyến (Vợ Chúa Trịnh Cương 1709 – 1729, Mẹ của hai Chúa Trịnh Giang 1729 – 1740, Trịnh Thanh 1740 – 1767).

 

Quê hương Bà ở làng Mi Thự. huyện Đường An (nay là Bình Giang), Trấn Hải Dương. Bà là con gái của Cụ Duệ Trạch Công VŨ TấT DU. Căn cứ vào sách Trịnh Gia Chính Phả, đời thứ 12, chép về Bà Chú Mi Thự như sau:

* Bà Thái Phi họ Vũ, tên húy là Ngọc Quyến, tên tự là Ngọc Nguyên. Bà được tôn phong là: Ý Công Hậu Đức Trang Hạnh Đoan Nghi Khuông Vận Diễn Phúc Quốc Thánh Mẫu. Sau khi chồng bà là Chúa HI Tổ Nhân Vương Trịnh Cương từ trần năm 1729 (thọ có 44 tuổi, làm Chúa 20 năm). Lúc đó, con trưởng Bà và Chúa Hi Tổ là Trịnh Giang (sinh năm Canh Ngọ, 1710) lên nối ngôi, đã vinh phong tôn kính Bà 15 Chữ Đẹp ấy. Lúc đó Bà mới có 42 tuổi, tức Bà sinh năm 1688 (Mậu Thìn) và đã lấy Chúa Trịnh Cương (Hi Tổ) năm 1706, lúc Trịnh Cương đang giữ chức Khâm Sai Tiết Chế các xứ, Thủy Bộ chư Dinh, kiêm Tổng Quốc Chính, hàm Thái Úy Phổ Quốc Công, Kinh Quốc Phủ, thời chúa cụ (ông cố nội) là Khang Vương Trịnh Căn (sinh ra ông nội của Trịnh Cương là Lương Mục Vương Trịnh Vịnh, chưa làm Chúa đã chết lúc 28 tuổi (1678) và cha là Trinh Cương là Tấn Quang Vương Tri Bính 1670 – 1720, thọ 33 tuổi, đã qua đời đựơc 04 năm thì bà mới lấy Cương).

*   Bà Thái Phi Vũ thị Ngọc Quyến lấy Trịnh Cương năm 18 tuổi, và sau đó sinh ra:

1. Con trai trưởng là Thuận Vương (tức Uy Nam Vương) Trịnh Giang. Năm 1740, Bà Thái Phi đã 53 tuổi. Thấy con lớn là Chúa Trịnh Giang hôn ám, say mê tửu sắc, tàn bạo, bóc lột nhân dân do bọn quyền thần hoạn quan là Hoàng Công Phụ cùng bè lũ, gây công phẫn toàn quốc. Dân chúng và Nho sĩ, Hào trưởng nổi lên làm loạn khắp nơi miền Bắc, chống triều đình Lê Trịnh. Bà đã họp các quan trung thành, cùng em ruột là Bỉnh Trung Công Vũ Tất Thấn, truất phế Uy Nam Vương Trịnh Giang xuống, quản thúc một nơi vì Giang bị điên loạn. Bà cho con thứ là Trịnh Doanh, sinh năm 1720, lúc đó 1740 đang làm Nguyên Súy Tổng Quốc Chính, Minh Đô Vương lên ngôi Chúa thay anh. Hành động đó chứng tỏ Bà là người phụ nữ quyết đoán sáng suốt về chính trị, đã cứu nguy cho vận mệnh Nhà Trịnh đang mất lòng dân, được phục hồi uy tín. Chính vì thế, đời sau cũng như đương thời, khen Bà giỏi và có tài trị nước và biết dạy các con trong việc làm Chúa.chứng tỏ Bà  có tính cương cường và nghiêm khắc, minh mẫn, có quan tâm đến đất nước rõ ràng, biết thời thế, chứ không phải là một Bà Chúa chỉ ru rú trong phủ và thâm cung, không hiểu gì ngoài đời và trong triều chính đâu.

2.  Bà còn có một người con gái là Thái Trưởng Quận Chúa tên là Trịnh thị Ngọc Cư gả cho một Hoàng tử con Vua Lê Thuần Tông.

3.  Bà rất nặng tình với anh em họ Vũ của Bà ở làng Mi Thự. Bằng  cớ, Bà đã cho em trai bà là Vũ Tất Thấn vào phủ Chúa phò giúp chồng và các con trai Bà, điều khiển việc nước. Ông Thấn được ân sủng đặc biệt với chức tước: Suy Trung Đực Vận Công Thần, Đồng Tham Tụng, Trung Doanh Khuông quân doanh Đô Đốc phủ, Chính Đô Đốc, Thự Phủ Sự kiêm Tôn Nhân phủ, Hữu Tôn Chính, Đại Tư Đồ, Bỉnh Trung Công. Còn được ban quốc tính là Trịnh – Thiết, Quốc Cửu (cậu nhà Chúa từ 1629 đến 1760), cực kỳ phú quý và hiển hách như một vương thân trọng thần, được đương thời nể sợ uy quyền. Nhưng con cháu họ hàng của Duệ Trạch Công và Bỉnh Trung Công (cha và em Bà) đã cậy thần thế và làm bay, để nhân dân oán than họ Vũ nhà Bà! Như việc Bà cùng cha và em bắt 4 phủ, 16 huyện của Trấn Hải Dương đã vất vả xây dựng Vũ Tộ Từ Đường Tôn Miếu thờ Tổ tiên của Bà tại làng Mi Thự suốt nhiều năm ròng rã, xẻ đá, chuyển gạch, gỗ, ngói về quê Bà xây dựng. Vừa tốn công quĩ quốc gia, vừa bóc lột sức dân. Nên đã xảy ra cuộc nổi dạy của nghĩa quân Mộ Trạch: Vũ Trách Oánh liên kết với anh em Nguyễn Cừ và Nguyễn Tuyển ở làng Ninh Xá chống phá Nhà Trịnh, thời Trịnh Giang, con Bà còn cầm quyền. ở Sơn Nam, Thanh Hóa, Sơn Tây, Kinh Bắc đều có cuộc nổi loạn chống triều đình họ Trịnh. Thế rồi Bà cũng bàn bạc với con là Chúa Trịnh Doanh và các quan văn võ bình định được yên ổn. Nhưng kết quả, nhà thờ họ của Bà tại Mi Thự, cùng dinh thự, Miếu Vũ, Lăng Mộ họ Vũ bị tàn phá thê thảm từ năm 1738 – 1741. Thậm chí, Bà còn tiến phong cho 1 ngừơi em gái tên Vũ Thị Sơ, đi tu ở chùa Cẩm Giàng được gọi là Bồ Tát Vương, thật quá đáng?

Bà Thái Phi Vũ Thị Ngọc Quyền mất ngày 21 tháng 9 năm Tân Mùi (1751), thọ 63 tuổi. Lúc đó Chúa Minh Đô Vương Trịnh Doanh đang cầm quyền cai trị và con lớn của Bà là Thái Thượng Vương đang mắc bệnh tâm thần nặng phải ở dưới hầm tối vì sợ sấm rền và tiếng động ồn. Có lẽ Bà đau buồn về con Bà bệnh hoạn và hối hận, u uất về việc bắt dân Hải Dương vất vả, oán thán việc xây lăng Miếu, đền thờ Tổ Họ Vũ ở Mi Thự trứơc đó bị phá tan. Nên Bà chết có lẽ do bệnh tật vì suy nghĩ đã làm điều thất đức, gây hậu quả đáng buồn ấy?

Để biết rõ về tiểu truyện Bà, chúng ta hãy đọc trong sách cũ Vũ Trung Tùy Bút (viết ra theo hứng trong lúc mưa) của Nho gia Phạm Đình Hổ, ngừơi sống sau bà Chúa Mi Thự, khoảng 50 năm. Chắc ông biết rõ dư luận khen chê về Bà, nên có chép rõ trong bài Vũ Thái Phi của sách đã nói ở trên. Chúng tôi xin trích dẫn sau đây: NXB Trẻ, bản dịch cũ của cụ Đông Châu và do nhà giáo Nguyễn Quang Tuân hiệu đính, TP.HCM 1989, trang 119 – 121, để độc giả cùng tham khảo về một Bà Chúa họ Vũ xưa tài giỏi hơn các phụ nữ đương thời như thế nào? Dù Bà có kiêu sa, dung túng họ Vũ nhà Bà lộng hành một thời, có tội lỗi. Nhưng không thể phủ nhận Bà có tài chính trị, biết lo việc nước và biết dạy con theo lẽ phải lúc cầm quyền.

(Trích dẫn sách)

Vũ Trung Tùy Bút của Tác giả: Phạm Đình Hổ

(Bản dịch)

Vũ Thái Phi

Bà Vũ Thái Phi nguyên người làng Mi Thự, huyện ta, tổ tiên trước là người làng Tử Dương, huyện Thượng Phúc. Cha đi ăm trộm, bị người làng đem giết đi. Khi ấy bà mới ba bốn tuổi, mẹ xuống tỉnh Hải Dương làm thợ cấy thuê ở nhà Võ công làng Mi Thự. Võ công một hôm ra ngoài ruộng: bấy giờ mùa hè đương nắng, Phi theo mẹ đứng trên bờ ruộng: hễ đứng chỗ nào thì có đám mây theo che rợp đất, không sai bước nào. Võ công lấy làm lạ, bảo người mẹ cho Phi làm con nuôi. Đựơc ít lâu, người mẹ đi làm thuê nơi khác và chết, Phi mới đổi theo họ Võ. Khi Phi lớn lên, được vào hầu Chúa Trịnh là Hi Tổ Nhân Vương đẻ ra đựơc hai người con là Du Tổ ThuậnVương và Nghị Tổ Ân Vương. Dụ Tổ sau tiến phong cho Bà là Thái Phi. Bà Thái Phi về sau dẹp yên được nội loạn, lập chúa Nghị Tổ, bà lại được gia phong tôn hiệu. Bấ giờ, họ hàng Bà ở làng Tử Dương không còn ai cả, nên mới nhận họ Võ ở làng Mi Thự làm họ quốc thích. Em nghĩa đệ là Bính Trung Công lại có công phù lập nhà chúa, tước vị đến Cửu phẩm nhân thần. Con cháu họ hàng ỷ thế làm càn, bắt dân đi phu lấy đá về làm nhà từ đường. Tất cả bốn phủ thuộc tỉnh Hải Dương phải cung cấp phu dịch khiêng vác, hễ anh đi thì em mới được về. Ba huyện ở Thượng Hồng phải chịu phu dịch rất nặng, dân không thể kham được. Về sau, ngừơi Ninh Xá huyện Chí Linh là con ông Nguyễn Mại tức là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển thừa thế làm loạn, ghép tre làm nón đấu, vót nứa làm giáo, kéo quân đến đốt phá nhà từ đường ngoại phủ ở làng Mi Thự. ấy chính là hồi loạn khoảng năm Canh Thân – Tân Dậu (1740 – 1741). Nay tòa nhà đá từ đường ấy đã nứt nẻ ra, suit cả xuống đất, gần chấm mái, khi nào mưa to thì nước chảy rót vào trong, gần nay vẫn còn trong thấy mái nhà. Hồi loạn năm Canh Thân – Tân Dậu, tỉnh Hải Dương ta chịu hại về việc binh đao đến mười tám năm, ruộng đất hầu thành rừng rậm. Giống gấu chó, lợ lòi sinh tụ đầy cả ngoài đồng. Những người dân sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột đồng mà ăn. Mỗi một mẫu ruộng chỉ bán được một cái bánh nướng. Tổng Minh Luân ta có một bà cụ góa mà giàu, người làng bầu cụ làm hầu thần. Vì tiền của bà cụ chất như núi, nên tục gọi là “bà hậu Núi”. Gặp năm mất mùa, nhà hết cả thóc ăn, bà mang năm bao bạc đi đổi thóc không được, phải chết đói ở bên xóm chùa Bính Đê. Bay giờ, làng ta bỏ hoang rậm rạp ngập mắt. Đến khi loạn lạc đã yên, người làng mới từ kinh đô lục tục kéo về, chặt tranh phá cỏ, đi tìm nhận lấy nền nhà cũ, thu nhặt những xương tàn đem chôn. Nay ở phía nam đầu làng vẫn còn có một khu nghĩa trang, hàng năm cứ đến rằm tháng bảy, ngừơi làng đem cỗ bàn ra cúng viếng.

Các cụ nhà nho làng ta ngày xưa, như ông nho sinh Phạm Diên Bá, thường nói chuyện với ta rằng: đương lúc loạn lạc, ông đi tìm đừơng về tỉnh Đông, có vào nghỉ nhà hàng cơm bên đường, thấy mùi thịt rất tanh, trên mặt nước bát canh thịt nổi sao lên như hình bán nguyệt. Hỏi ngừơi hàng cơm thì họ nói đó là thịt lợn lòi. Khi ăn đến nửa chừng, thấy có con rận chết ở trên mặt bát, mới biết là thịt người, vội vàng chạy ra móc cổ thổ ra. Ôi! Đời xưa bảo rằng “thú ăn thịt người” cũng chưa đến nỗi quá tệ như thế!

Sau loạn, ngừơi làng mới trở về, phải lấy lửa đốt sạch đồng  ruộng, trông ra man mác. Trong làng chưa kịp làm nhà ở, phải cùng nhau quanh quần chung quanh nền đình miếu, kết kẻ sơ làm ngừơi thân, cùng trông nom giúp đỡ lẫn nhau, ốm đau cùng phù trì, tử táng cùng viếng thăm. Về sau cứ theo thói ấy thành ra một họ Bình Ninh (tục gọi là họ Nghè), cũng theo được cái ý cổ nhân ra vào giúp đỡ lẫn nhau. Cuối năm Cảnh Hưng( 1786) trong làng người già đã chết, trai tráng đã già, còn những kẻ thiếu niên mới lớn lên, lại sinh ra thói trá ngụy, cái ước cũ ấy mới bỏ đi. Gần đây cũng có người muốn kết phường họp bạn với nhau, nhưng hoặc thấy lợi mà tranh  nhau, hoặc tức khí mà đánh nhau vừa họp lại tan ngay. Thế thì lời nói đã không giữ trung tín, nết làm đã không giữ ngay thẳng, làm sao mà thi hành ở chốn làng xóm được. Bậc thánh nhân dạy như thế là phải lắm.

Ta thường thấy các cụ tôn trưởng họ Bình Ninh nói chuyện với nhau rằng làng ta chỉ nền đình là cao nhất, thứ hai đến nền thổ sơn, sau đó mới đến nền đống thổ. Ta vẫn lưu ý nghiệm xem thì quả nhiên không sai. Từ đời Chiêu Thống, năm Kỷ Dậu (1789) trở về sau, ta phải đi kiếm ăn bốn phương, mãi đến năm Đinh Tị (1797) mới trở về làng, ra tản bộ quanh ngoài đồng, thì thấy thổ sơn, đống sơn càng ngày càng thấp, nền đình cũng vậy, mà xứ Đồng Lạc, mả Nôm, so với cũ lại cao gấp mấy. Mới biết địa mạch có khi thay đổi bất thường.

Ngoài đồng làng ta có cái quán Độ Tử, truyền rằng từ năm Canh Thân (1740) đời Cảnh Hưng trở về trứơc, người làng ai chết nơi khách địa đưa ma về thì không đựơc đưa vào làng, phải để áo quan ngoài quán ấy mà làm ma, nhân thế mới thành tên là quán Độ Tử. Sau khi loạn lạc đã yên, tục ấy mới bỏ đi. Quan Thiêm sự là Lê Đình Tốn liền quyên tiền sửa sang lại làm nơi cho người đi cày cấy nghi ngơi, bỏ chữ Tử đi, chỉ để chữ Độ, thành tên là quán Độ. Quán ấy chính ở về phía Tây nhà ta, mỗi khi mặt trời gần xế chiều, lũ mục đồng đuổi đàn trâu trở về, nghỉ chơi ở đó, tiếng hát, tiếng địch véo von nghe cũng thú vị. Ta nhân lúc thong thả cũng ra chơi ở quán ấy, đi dạo trên cánh đồng mênh mông, tâm hồn cũng đựơc phóng khoáng thảnh thơi. Nay cái quán ấy đã đổ nát, ta thì còn phải lưu lạc chưa trở về làng, đất khách quê người, đêm khuya ngẫm nghĩ, khôn xiết bồi hồi!

Bài viết của tác giả Cự Vũ (Vũ Hiệp) (n.d.) trên website https://www.hovuvo.com/Default.aspx?View=ViewNews&NewsID=239