Bà được các nhà nghiên cứ lịch sử nhà Mạc gần đây cho rằng Bà Ngọc Tỏan là vợ của Hòang Đế Mạc Thái Tổ Minh Đức: Đặng Dung (1527-1541): Khai sáng triều đại nhà Mạc (1527-1592-1677). Bà có nhiều công đức với đời.
Họ tên và chức tước của bà được khắc trên nhiều bia đá cổ tại một số ngôi chùa được xây dựng hay trùng tu thời nhà Mạc (thế kỷ 16).
Sau năm 1541 (tân sửu) khi đó vua Mạc Thái Tông, đại chính Đăng Doanh và Thái Thượng Hòang Đế (Đăng Dung) lần lượt chết. Bà Thái Hòang Thái Hậu được coi như người được kính trọng nhất của triều đình Mạc Hiến Tông, Quảng Hòa: Phúc Hải (1540-1546), và triều vua Mạc Phúc Nguyên (Tuyên Tông Hòang Đế 1547-1562). Bà không đẻ ra vua Mạc Đăng Doanh, nhưng là kế mẫu, có nuôi con lớn của chồng là Đăng Doanh lúc nhỏ. và bà có sinh với Mạc Đăng Dung một số hòang tử và công chúa. Nên bà có địa vị Mẫu Nghi Thiên Hạ thời Mạc.
Tiểu sử bà Vũ Thị Ngọc Tỏan được tác giả Hòang Lê, ghi lại trong sách Hợp Biên Thế Phả họ Mạc, của ban liên lạc họ Mạc chủ trương (NXB, văn hóa dân tộc, Hà Nội 1998, phần phụ lục của Hòang Lê biên khảo, trang 159-160).
Chúng tôi cũng có tư liệu (Đại Việt Thông Sử của Lê Quý Đôn và Mạc Triều Ngọai sử của Đỗ Bằng Đòan ) về dòng họ Vũ Hộ, bạn thân thiết từ lúc trẻ tuổi của Mạc Đăng Dung (1483 Quí Mão mất 1541Tân Sửu). Và đồng ý kiến với ông Hòang Lê là bà Vũ Thị Ngọc Tỏan là em gái của ông Vũ Hộ, Võ tướng nhà Lê và Mạc, quê ở xả Cung Hiệp, huyện Nghi Dương, Hải Dương, gần làng Cổ Trai (quê Mạc Đăng Dung).
Mạc Đăng Dung lên được ngôi vua, có một phần nhờ người anh vợ là Vũ Hộ (1478-153) có dũng lược, làm hiệu uý chỉ huy quân túc vệ cho vua Lê Uy Mạc năm 1507, cùng thời với Đăng Dung làm Đô lực sĩ. Đời Lê Chiêu Tông năm 1521, Vũ Hộ đã được phong chức Tổng Trấn, tước Qùynh Khê hầu. sau hết lòng với anh rể là Đăng Dung công việc cũng có uy quyền nắm chức Thái sư. Năm Thống nguyên thứ 4 (1525), Vũ Hộ được phong tứơc Từ Quận Công và chức Đô Đốc Tây Quân, rồi Binh Bộ Thượng Thư, Chưởng Bộ Sự, Đồng Đức Tán Trị Công Thần, Gia Phong Thiếu Bảo (có lẽ chỉ kém danh vọng với Đăng Dung thôi)
Sau khi Mạc Đăng Dung lên ngôi vua(1527), thì Vũ Hộ được phong chức tước Thái Bảo Tỉnh Quốc Công, được ban Quốc tính là Mạc Bang Hộ, con trai là Vũ Huấn được phong Quận Công, Phò Mã lấy em gái út của Đăng Dung là công chúa Mạc Thị Ngọc Di, để kết thân gia, vây cánh. Vì lúc đó Hòang hậu của vua Minh Đức là bà Vũ Thị Ngọc Tỏan là cô tuột phò mã Vũ Huấn, tức Mạc Bang Huấn. Có tư liệu còn cho biết bà Hòang hậu Vũ Thị Ngọc Tỏan sinh ra hòang tử thứ hai Mạc Chính Trung được phong là Hoằng Vương và hòang tử ba là Mạc Phục Sơn được phong là Định Vương và công chúa Ngọc Thọ và Ngọc Châu. Về nhân vật, gia thế ông Vũ Hộ, đọc thêm trong sách Đại Việt Thông Sử (tức Lê Triều Thông Sử) của bảng nhãn Lê Quý Đôn sọan giữa thế kỷ 18.
Còn tiểu truyện bà Thái Hòang Thái Hậu họ Vũ làng Cung Hiệp (nay là làng Thù du, huyện Đồ Sơn, xã Minh Tâm, Hải Phòng ) của nhà Mạc, xin đọc nguyên tác của tác giả Hòang Lê sau đây:
Thái Hoàng Hậu Vũ Thị Ngọc Toản
Có nhà nghiên cứu cho ràng bà là vợ Mạc Đăng Dung
Quê quán chưa khảo cứu được .
Về người quý phái còn nhiều nétcủa người lao động chân chất, đôn hậu. Bà thấy dân chúng khốn khó vì chiến tranh liên miên giữa các thế lực trong triều Vua Lê Uy Mục(1505-1509), Lê Tương Dực(1509-1516) và cả sau khi nhà Lê trung hưng…thì rất trăn trở nên đã hướng theo đạo Phật, chuyên tâm làm điều thiện mục đích là để con người thoátkhỏi mọi đau khổ, thấy rõ khổ đau dày xéolên kiếp nười mà khơi lòngtứ bi, thương yêu lẫn nhau cứu giúp nhau ra khỏi bể khổ, chứ không phải nói khổ mà than cho số phận. Cùng trong cảnh hoạn nạn khốn khổ thì dễ thông cảm, dễ thương nhau nhưng khi ở trong hoàn cảnh giàu sang quền thế, có đại vị cao sang thì lại càng phải chú ý tu nhân tích đức, phài buông xả phiền não, tự mình hết khổ, giúp mọi người hết khổ, như thế mới làm đúng mục đích Phật dậy. Xuất phát từ mục đích ấy mà Bà rất mộ Phật. Bà tán thành chủ trương của con cháu trong Vương gia là đề cao tín ngưỡng nhất là Phật giáo và Đạo quán. Hệ thống Đạo quán được xây dựng mở mang khá hoàn chỉnh, có bề thế và quy mô. Bản thân Bà đã tự nguyện công đức cho nhiều nơi, không những thế Bà còn khuyên bảo các Hoàng Hậu, Vương Phi, các vị phu nhân của các bậc công hầu và các công chúa, quận chúa cùng làm như Bà. Việc Bà làm được nhân dân hết lời ca ngợi là một bậc “Mẫu nghi thiên hạ”, là “Thánh thiện”… nhiều chùa đã tạc cả tượng của Bà như Chùa Thiên Phúc (Trà Phương) và Chùa Minh Phúc (Minh Thị).Tượng Bà có hình khối, ngồi xếp bằng trong vòm động. Trên có ba chữ “Vân Tiên động”.”Vân Thúy An”. Hai tượng này được tạc vào các năm 1562 và 1572.ở chùa Thiên Phúc còn có cả tượng Đức Mạc Đăng Dung.
Ngoài viêc dân chúng tạc tượng Bà ngay khi bà đaang sống dã là chuyện hiếm có vì dân coi bà như Phật sống. Khi bà công đức cho nơi này, nơi khác là làm theo tâm linh chứ Bà đâu có biết dân chúng lại tạc tượng va ghi rõ cả việc Bà làm trên nhiều bia đá để lưu truyền hậu thế. Bia Hà Lâu tự bi ở xã Đông Minh, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng tạo năm 1589 nói rõ chùa Hà Lâu trải qua bao đời,nhieềeu lần tu tạo nhưng quy mô chưa hoàan hảo…Các thiện sĩ khởi công xây tòa hậu đường, hai bên tả, hữu hành lang…có ghi như sau…”…Lại nhờ vị Thánh hiền Thái Hòng, Thái Hậu, sai người dò hỏi liền ban tiền của để tu bổ thêm tam quan từ vũ, tô tương phật và làm mới 4 pho. Mọi việc hoàn hảo, công đức vẹn toàn”. Sau bài Minh 10 câu ca tụng có ghi: Thái Hoàng Thái Hậu họ Vũ (tức Vũ thị Ngọc Toán). Hoàng Thái Hậu họ Bùi (tức vợ Vua Mạc Phúc Nguyên). Phụ chính ứng vương hô Mạc (tức Đông Nhượng). Bia chùa Trúc Am tạo năm 1589 ghi như sau:
“Thường nghe có một thời Đế vương hưng thịnh tất có một thời chùa phật đươc coi trọng, lại có một thời danh sĩ làm điều thiện. Naấu không có bia ký thì sao hiểu được người vậy. Nay xã Nghĩa Lễ thuộc đất Nghi Dương là thắng địa ở Dương Kinh. Phía Tây có chùa cổ, tên gọi là Trúc Am. Hình trạng phi thường:Đầm trà làm vạt, sông Mai làm dải, Đồ Sơn chấn trước An ấp bao sau, đẹp đẽ tựa thế giới Tây Thiên. Muốn biến cũ thành mới mà không có bậc Đại Đàn việt, không có phương sách lớn thì khó thành.
Kính nhờ Thái Hoàng,Thái hậu họ Vũ đã tín thí gỗ lim để dựng hai gian thượng điện. Thái Hoàng Thái hậu họ Bùi cúng tiền bạc làm them bậc…Ngày lành tháng tư năm Nhâm Ngọ sai độ khởi công. Chẳng bao lâu lâu đài đã mới mẻ hẳn lên. Hiên mái rực rỡ, thềm tùng gió đưa, rõ ràng một cảnh quan kỳ vĩ. Đẹp dẽ thay! Một quy mô lớn…”
Đến chùa Minh Phúc ở xã Cẩm Khê, huyện Tiên Lãng, TP Hải Phòng ta lại tháy một tấm bia ghi tạo năm Sùng Khang thứ 7 (1572) ghi như sau: “Bà Hoàng Thái Hậu họ Vũ hưng tạo chùa Minh Phúc và cầu quán, chợ xã Cẩm Khê. Bà lại cúng tiến ruộng mới mua là 5 mẫu tại xứ Cả Mã, xã Đốc hành, huyện Tiên Minh làm ruộng Tam Bảo” (Bia ghi rõ ruộng ấy mua của ai, theo thời giá là 120 lạng bạc, vị trí của thửa rõ ràng). Bà không chỉ cúng tiền bạc ruộng đất ở một nơi mà ngay ở xã Hòa Niễu, huyện kiến Thụy, tỉnh Kiến An nay thuộc TP Hải Phòng còn có tấm bia lớn cỡ 97cm x130cm tạo năm 1561. Hai mặt khắc ghi việc tạo chùa Thiên Phúc người đầu tiên là Thái Hoàng Thái Hậu họ Vũ có ruộng phân (phân điền) và ruông mới mua đem cúng tiến làm của Tam Bảo, kê ruộng 23 mẫu, 2sào, 2 thước.
ở xã Thọ Lão,huyện Phù Tiên, tỉnh Hải Hưng (nay là huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên) trên bia Trùng tu Sùng An, Sùng Phúc nhị tự bi tạo năm 1574, niên hiệu Sùng Khan thứ 9 cũng nhắc đến Thái Hoàng Thái Hậu ban tiền bạc trùng tu điện, tô tượng Phật.
ở xã Thái Khê, huyện Yên Hưng tỉnh quảng Ninh bia chùa Bảo Phúc cũng ghi Thái Hoàng Thái Hậu họ Vũ cung tiến 6 nghìn (sáu nghìn) lá vàng.
Thật khó lần theo vết chân nơi bà đã tới và khó ghi được những việc bà đã laàm lúc sinh thời (xem thêm văn bia thời Mạc – PTS Đinh Khắc Thuân – NXBKHKH, HN 1996). PGS Chu Quang Trứ ở Viện Mỹ Thuật trong bài “hiểu về xã hội Mạc qua mấy phát hiện về mỹ thuật Mạc ở xứ Đông” dã có một nhận xét đúng: “…quý tộc nhà Mạc đã đứng ra tôn tạo, tu sửa nhiều chùa. Lớp quý tộc này tyập trung ở xứ Đông muốn nắm vùng đất căn bản của mình đã tích cực xây dựng cho bộ mặt văn hóa làng quê khang trang và người làm thêm ruộng cầy cấy. Họ được người làng tôn vinh đồng nhất với Tiên, với Phật. Tạc chân dung rước vào đền, chùa để thờ bên cạnh một số tượng Phật, Quan Âm vốn rất gần trong tâm linh người dân.”
Hoàng Lê
Điều nổi bật về bà Thái Hoang Thái Hậu Vũ Thị Ngọc Toản, là tên bà được ghi khắc tôn kính trong nhiều tấm bia Nhà Mạc ở trong nhiều ngôi chùa cổ, Bà luôn được nêu chức danh ở phần đầu các bài văn bia công đức, dứng trên các Thái Hậu, Hoàng Hậu, Thân Vương và Công chúa Phò, Mã Nhà Mạc. Cứ xem bài biên khảo trên và tập sách “Văn bia thời Mạc” của tác giả Đinh Khắc Thuân ở Viện nghiên cứu Hán nôm (Hà Nội 1996) sẽ rõ hơn nữa về công đức Bà.
Dù Bà không làm nên sự nghiệp to lớn ích quốc lợi dân gì mấy bởi qui chế xưa người phụ nữ dù là bậc thượng lưu quý tộc cũng không có thể mấy khi được nêu danh tính, hành trạng, sự nghiệp ra ngoài xã hội. Trừ có công ơn hay từ tâm với địa phương mới được chép vào sử và bia đá, nên đời sau mới biết đến.
Bà Vũ Thị Ngọc Toản, Hoàng Hậu của Mạc Thái Tổ (Đăng Dung) cũng từng là Mẫu Nghi Thiên Hạ trong hơn 30 năm làm vợ Vua, Mẹ Vua, Bà Vua, Cụ Tổ Bà các Vua Nhà Mạc. Đó cũng là một vinh dự cho một người đàn bà họ Vũ cách nay 470 năm trước.
Bài viết của tác giả Cự Vũ (Vũ Hiệp) (n.d.) được đăng trên website: https://www.hovuvo.com/Default.aspx?View=ViewNews&NewsID=239















